Người ta vẫn nói 'kiến thức lớp 1' để chỉ những vấn đề quá dễ dàng mà bất cứ ai cũng hiểu được. Vậy nhưng, trong thực tế, có nhiều kiến thức thuộc lớp 1 nhưng lại khiến người lớn tranh cãi không ngớt, tưởng chừng đơn giản nhưng rất nhiều người lại không hề nắm được.
Cậu hỏi tiếng việt lớp 1 này là một ví dụ điển hình như vậy. Cụ thể là mới đây, một bà mẹ có con đang học lớp 1 lên mạng bày tỏ sự thắc của mình về việc sử dụng "Chữ kí" hay "Chữ ký" mới là chính xác bởi theo như sách giáo khoa in thì sử dụng "Chữ kí". Tuy nhiên khi con chị làm bài tập như thế thì lại được cô giáo sửa lại thành "Chữ ký".
Phía dưới phần bình luận, đa số các bậc phụ huynh đều cho rằng trong trường hợp này cô giáo đã sửa sai, "Chữ kí" là chính xác bởi "Chữ K sẽ đứng trước các âm: e, ê, i" - nhiều người bình luận.
Tương tự như bà mẹ trên, một bà mẹ khác cũng có con đang theo học lớp 1 hoang mang không biết "Kỳ đà" hay "Kì đà" thì mới chính xác.
"Cả nhà ơi cho em hỏi bé nhà em năm nay vào lớp 1, thấy cô giáo chấm bài về từ "Kỳ đà" mới giở sách con ra xem thì trong sách viết là "Kì đà". Mà xưa nay em quen dùng "Kỳ đà, lên wiki cũng viết như vậy không biết như nào để hướng dẫn cho bé. Mong cả nhà thông não hộ em ạ!".
'Chữ kí' mới là đúng
Về hai từ "Chữ kí" và "Chữ ký" mặc dù cùng đồng âm, đồng nghĩa nhưng về mặt kí tự ngữ pháp thì khác nhau giữa chữ “i” và “y” trong trường hợp này thì từ “chữ kí” đúng chính tả tiếng Việt nhất.
Theo đó, quy định cũ trong tiếng Việt thống nhất tất cả đều dùng “i” như hi vọng, hi sinh, qui hoạch, quí tử, mĩ miều, thư kí, chữ kí, kì lạ, sĩ tử, kĩ thuật, cụ kị, kị binh…
Cho đến nay chúng ta nhận ra có nhiều từ đồng âm khác nghĩa, chính tả đã phân biệt cách dùng i và y theo phương hướng (luật không ràng buộc) phổ biến như sau:
- Những từ nào chứa “i” hay “y” mà mang ý nghĩa hay tính chất trang trọng, đẹp đẽ, thể hiện sự tôn kính thì dùng "y" thay cho "i"
- Danh từ riêng, tên riêng dùng y (như tên My) - hoặc tùy thuộc vào sở thích đặt tên của mỗi bố mẹ.
Còn lại, đúng chính tả tiếng Việt vẫn là dùng "i".
Gần đây, chương trình giáo dục tiếng Việt lớp 1 tại Việt Nam đã gây ra nhiều tranh cãi với các phụ huynh, giáo viên và các chuyên gia. Có một số vấn đề nổi bật xoay quanh sách giáo khoa, nội dung bài học và phương pháp giảng dạy, dẫn đến những lo ngại về cách tiếp cận việc dạy và học tiếng Việt cho học sinh lớp 1
1. Ngôn ngữ và từ ngữ không phù hợp với lứa tuổi
Một số sách giáo khoa tiếng Việt lớp 1 bị phê bình vì chứa những từ ngữ ít phổ biến, khó hiểu hoặc không phù hợp với vốn từ và tâm lý của học sinh lớp 1. Ví dụ, có những từ ngữ hoặc cách diễn đạt khó hiểu, ít sử dụng trong đời sống hàng ngày như “chén”, “thỏ thẻ”, “ve vuốt”. Điều này khiến các em gặp khó khăn trong việc hiểu và học từ mới.
Thay vì chọn từ ngữ dễ hiểu, sát với đời sống hằng ngày, sách giáo khoa lại sử dụng một số từ cổ hoặc ít gặp, gây khó khăn cho phụ huynh khi hướng dẫn con em học tập.
2. Phương pháp học tập nặng về lý thuyết, ít tính ứng dụng
Nhiều phụ huynh và giáo viên cho rằng sách tiếng Việt lớp 1 hiện nay nặng về lý thuyết và khó tiếp cận. Cách giảng dạy quá nhiều khái niệm ngữ pháp hoặc cấu trúc câu trong giai đoạn đầu có thể gây quá tải cho học sinh.
Thay vì hướng đến việc tạo hứng thú học tập, khơi gợi trí tò mò, phương pháp học tập lại tập trung quá nhiều vào lý thuyết và từ vựng phức tạp, không phù hợp với tâm lý và khả năng nhận thức của trẻ lớp 1.
3. Nội dung quá tải và áp lực đối với học sinh
Chương trình tiếng Việt lớp 1 hiện nay được cho là khá dày đặc với nhiều bài học phức tạp, yêu cầu học sinh ghi nhớ nhiều từ và câu ngay từ đầu. Đối với trẻ 6 tuổi, việc học đọc, viết, hiểu từ ngữ trong thời gian ngắn đòi hỏi sự tập trung lớn, điều mà không phải học sinh nào cũng đáp ứng được.
Áp lực từ chương trình học có thể khiến trẻ cảm thấy chán nản và căng thẳng khi tiếp cận với tiếng Việt ngay từ khi bắt đầu vào lớp 1. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả học tập mà còn làm mất đi sự hào hứng của các em đối với việc học.
4. Cách tiếp cận sách giáo khoa còn thiếu linh hoạt
Một số phụ huynh và giáo viên cho rằng sách giáo khoa lớp 1 có cách tiếp cận chưa linh hoạt, thiếu tính sáng tạo. Cách sắp xếp bài học, phân bổ kiến thức đôi khi không phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ. Điều này khiến giáo viên gặp khó khăn trong việc áp dụng linh hoạt phương pháp dạy học và dẫn đến việc trẻ khó tiếp thu bài.
Hơn nữa, các phương pháp dạy học sáng tạo như kể chuyện, học qua trò chơi, hoạt động ngoại khóa thường không được chú trọng trong sách giáo khoa.
Kết luận
Những tranh cãi về sách giáo khoa tiếng Việt lớp 1 phản ánh nhu cầu cần điều chỉnh chương trình học sao cho phù hợp với lứa tuổi và năng lực của trẻ. Việc cân nhắc lại về ngôn ngữ, phương pháp giảng dạy và sự tiếp cận mềm dẻo hơn có thể giúp học sinh