Hút mỡ chi dưới tăng nhiều trong hai thập niên qua. Trước đây, chi dưới là nơi mà kết quả hút mỡ dễ cho kết quả không hài lòng. Đã có nhiều cải tiến kỹ thuật. Hiện nay, bằng kỹ thuật hút theo toàn bộ chu vi, hút lớp mỡ nông, hút mỡ có thể làm giảm các chỗ phồng to ở đùi, ở bắp chân và tạo được đường cong thẩm mỹ.
CHỈ ĐỊNHLoại to theo toàn bộ chu vi, mỡ được phân phối rãi rác theo toàn bộ cẳng chân, ngoại trừ các vùng quanh mắt cá chân, gân gót chân hiếm khi có tích trữ mỡ.
Loại mỡ tích trữ khu trú: bắp chân phồng to ở phần dưới ngoài về phía xương mác, mặt trong xương chày, vùng cổ chân. Mỡ tích trữ nhiều ở vùng giữa cơ sinh đôi và phần dưới cẳng chân làm cho cẳng chân có dạng hình ống.
-Có thể dùng hai ngón tay bóp đánh giá chiều dầy lớp mỡ: thực hiện khi bệnh nhân đứng trên bục, rồi đứng trên các ngón chân. Bệnh nhân có thể gập gối 90 độ và để cẳng chân nằm trân cái ghế trong khi đứng trân chân còn lại. Chiều dầy lớp mỡ khoảng 2 cm ở bắp chân, 1 cm ở vùng cổ chân là vừa.
CẤU TRÚC GIẢI PHẪU Sơ đồ tĩnh mạch hiển(great sapheneuos vein) dưới da cần tránh khi hút mỡ
Đánh dấu các chỗ phồng ở mặt trong và ngoài đùi, mặt trước và mặt sau đùi ở tư thế đứng.
Đánh dấu các chỗ phồng ở bắp chân, cổ chân ở tư thế ngồi và đứng trên các ngón chân để giúp phân biệt các chỗ phồng to là do tích trữ mỡ với cơ và gân bên dưới.
Đầu tiên, vẽ vùng tích trữ mỡ to nhất ở cổ chân. Đánh dấu mắt cá, gân gót, xương chày để tránh hút mỡ ở các vùng nầy. Vẽ đường ở trước và sau chạy từ mặt trong đầu gối tới mắt cá. Đánh dấu vùng chuyển tiếp chỗ mà bắp chân bắt đầu nhỏ, tho lại hướng về cổ chân. Vẽ giới hạn trên của bắp chân ở dưới gối. đánh dấu các chỗ phồng ở gối ở trong-ngoài-trên. Đánh dấu 4 lỗ rạch da 2mm để hút mỡ ở gối, mắt cá và ở vùng bẹn, mông.
Bệnh nhân nằm ngữa.
Tư thế:
Hút mỡ ở mặt trước hút theo kiểu rẻ quạt với chân để thẳng. Hút mặt trong với tư thế gối gập như chân ếch. Ở mặt ngoài, có thể cho bệnh nhân nằm nghiêng. Ở mặt sau, cho bệnh nhân nằm sấp. Hình trước hút mỡ cẳng chân (trái) và sau hút mỡ (phải).
Chăm sóc sau mổ
Nhiễm trùng, bong da, viêm tĩnh mạch, viêm
gân, viêm khớp: hiếm gặp.