Khi mang thai, nhu cầu dinh dưỡng của người phụ nữ cao hơn mức bình thường để vừa duy trì hoạt động của cơ thể, đáp ứng sự thay đổi về sinh lý của người mẹ (tăng chuyển hóa, tăng tích lũy mỡ, tăng lượng máu tuần hoàn...), vừa đảm bảo cho thai nhi phát triển. Calci, sắt và acid folic là những chất dễ thiếu hụt nhất.

Calci

Cơ thể người phụ nữ có khoảng 1,2kg calci; 99% tập trung ở xương và răng; chỉ có 1% trong máu và các tổ chức. Khi mang thai, bào thai trong bụng mẹ cần nhiều calci để phát triển hệ thống xương. Nếu mẹ không hấp thu đủ calci qua đường ăn uống, calci từ cơ thể mẹ sẽ được huy động sang thai nhi; hậu quả sẽ là:

• Giảm lượng calci trong máu mẹ: Trong máu người mẹ, calci ở dưới dạng ion hoá, giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì các kích thích thần kinh, cơ. Khi nồng độ calci trong máu hạ thấp, có thể xuất hiện chuột rút, co giật (cơn tetanie).

• Nếu quá trình huy động calci từ mẹ sang con diễn ra liên tục, người mẹ sẽ bị loãng xương.

Một chế độ ăn cân đối, hợp lý, giàu calci sẽ giúp thai nhi phát triển tốt, người mẹ không bị thiếu calci. Nhu cầu calci của người phụ nữ mang thai là 1.000-1.200mg/ngày (cao gấp 2 lần so với người bình thường).

Calci có nhiều trong một số thực phẩm như sữa và các chế phẩm của sữa (sữa đậu nành cũng có lượng calci tương đối tốt). Tôm, cua, cá là nguồn thực phẩm giàu calci; đặc biệt là tôm cua cá nhỏ kho nhừ ăn cả xương là nguồn calci hữu cơ rất tốt, có tỷ lệ hấp thu cao.

Những phụ nữ mang thai nếu có biểu hiện chuột rút, cần hỏi ý kiến bác sĩ để dùng bổ sung thêm calci dưới dạng chế phẩm thuốc.

Sắt và acid folic

Khi mang thai, phụ nữ dễ bị thiếu máu nhất (khoảng 60% thai phụ Việt Nam); sức khoẻ của cả người mẹ và thai nhi vì vậy dễ bị ảnh hưởng, nguy cơ sản khoa khi sinh nở (sẩy thai, băng huyết) dễ xảy ra.

Quá trình tạo máu đòi hỏi sự tham gia của nhiều chất dinh dưỡng như chất đạm, sắt, acid folic, vitamin B6, vitamin B12. Khi mang thai, nhu cầu chất sắt và acid folic cần cao hơn để tăng tạo máu, giúp tăng thể tích máu người mẹ và thai nhi phát triển. Acid folic ngoài việc tham, gia cấu tạo hồng cầu còn giúp cho quá trình phân chia các loại tế bào xảy ra bình thường.

Chất sắt phân bố không đều trong thực phẩm và tỷ lệ hấp thu, sử dụng trong cơ thể cũng rất khác nhau. Thức ăn có nguồn gốc động vật nói chung (thịt, trứng, gan...) giàu chất sắt và có tỷ lệ hấp thu cao. Các loại đậu đỗ có nhiều chất sắt và tỷ lệ hấp thu tương đối cao. Các loại ngũ cốc, lương thực đều nghèo chất sắt.

Vì vậy biện pháp phòng thiếu máu thiếu sắt cho bà mẹ mang thai là tăng thêm các thực phẩm giàu sắt như thịt, trứng, gan, bầu dục, đậu đỗ, đồng thời chú ý ăn thêm rau quả để có đủ vitamin C hỗ trợ hấp thu sắt được tốt hơn.

Nguồn thực phẩm chứa acidfolic rất đa dạng: có nhiều trong các loại rau xanh, đậu quả, nước quả, gan, các hạt nảy mầm (mầm lúa, mầm lúa mì, giá đỗ...). Trong thực phẩm, acid folic dễ bị phân hủy bởi nhiệt độ và ánh sáng mặt trời.

Qua quá trình chế biến, tỷ lệ acid folic bị mất từ 50-90%. Acid folic cũng bị hao hụt đáng kể nếu thức ăn để lâu ngoài ánh sáng. Để giúp có đủ acid folic trong khẩu phần, phụ nữ mang thai cần ăn phối hợp nhiều loại thực phẩm, tăng cường các loại rau, quả tươi. Thực phẩm mua về cần chế biến ngay và ăn ngay sau khi nấu.

Bên cạnh chế độ ăn uống, để phòng chống thiếu máu, các bà mẹ cần uống bổ sung thêm viên sắt/acid folic hàng ngày (loại viên chứa 60mg sắt nguyên tố và 0,4mg acid folic) ngay từ khi bắt đầu có thai đến sau sinh 1 tháng.