Xung quanh vụ cưỡng chế của UBND Huyện Tiên Lãng, mình đưa ra thông tin sau để mọi người hiểu hơn về những lập luận của bác Đặng Hùng Võ là bị sai lệch. Qua đây để mọi người nắm bắt chính xác hơn tình hình pháp lý và cảnh giác với sự thổi phồng của báo chí.


http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/473467/UBND-huyen-Tien-Lang-co-nhieu-cai-sai.html



Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường Đặng Hùng Võ:


UBND huyện Tiên Lãng có nhiều cái sai


-TT - Là người tận tường Luật đất đai, khi xem các quyết định giao đất của UBND huyện Tiên Lãng đối với ông Đoàn Văn Vươn, ông Đặng Hùng Võ cho rằng các quyết định giao đất do huyện Tiên Lãng ban hành đều trái Luật đất đai.



Đây chỉ là phần mào đầu.



-Ông phân tích:


-Với các quyết định giao đất cho ông Vươn, phải khẳng định không thuộc trường hợp đất công ích do cấp xã đứng ra đấu thầu, cho thuê trực tiếp để tạo ngân sách xã. Đây là việc giao đất cho hộ gia đình cá nhân, theo Luật đất đai năm 1993, cụ thể là theo nghị định 64 về việc giao đất sản xuất đối với đối tượng ở đây là giao đất sản xuất trồng cây hằng năm, nuôi trồng thủy sản, làm muối thì thời hạn giao đất được Luật đất đai quy định là 20 năm.


Cách tính thời hạn được xác định nếu quyết định đó giao sau ngày 15-10-1993 thì được tính từ thời hạn ban hành quyết định giao đất. Nếu giao đất từ trước thời điểm trên thì bắt đầu tính thời hạn từ 15-10-1993. Như vậy, thời hạn mà huyện Tiên Lãng giao đất cho ông Vươn quy định 14 năm là trái luật, mà phải giao 20 năm mới đúng.



Đây là cái sai đầu tiên của bác Đặng Hùng Võ.


Cần chú ý rằng gia đình anh Vươn đã có đất 64 ở Bắc Hưng. Ông Vươn đã được giao đất Nông nghiệp ổn định lâu dài tại nơi ông Vươn thường trú xã Bắc Hưng cùng chung với gia đình 7 khẩu là 2940 m2 (bình quân 420 m2/khẩu).


Tại thời điểm ra quyết định giao đất làm đầm thì đây không phải là đất nông nghiệp mà là quỹ đất bãi bồi ven biển chưa sử dụng, đã được khai tại tờ bản đồ số 9 kèm theo sổ thống kê thời kỳ đo vẽ năm 1985 (BĐ 299) chỉnh lý năm 1990 thể hiện thửa 43 diện tích 33.600 m2, thửa 44 DT 60000 m2, thửa 107 DT 63.800 m2, thửa 169 DT 99.000 m2 và thửa 168 DT 13.540 m2 đều ghi là bãi cát, bãi bồi (các thửa này là vị trí diện tích 21 ha), còn phần ngoài hướng ra biển (phần diện tích 19,3 ha) chưa được thể hiện trên bản đồ.


Điều này chứng tỏ đây là đất bãi bồi chứ không phải đất 64.


Cũng có người viện cớ rằng: “Ngày 04/10/1993 UBND huyện Tiên Lãng ra Quyết định 447/QĐ-UB giao 21 ha đất bãi bồi ven biển thuộc địa bàn hành chính xã Vinh Quang cho ông Đoàn Văn Vươn - công dân xã Bắc Hưng để sử dụng vào mục đích nuôi trồng và khai thác thủy sản có thời hạn 14 năm.”


Nhiều người dựa vào đây nói rằng đó là đất thủy sản, nhưng cần phân biệt đất bãi bồi và mục đích sử dụng của đất bãi bồi. Đất bãi bồi hoàn toàn có thể sử dụng vào việc nuôi trồng thủy sản, nhưng nó vẫn cứ là đất bãi bồi.



Trích Luật Đất Đai 2003


Điều 80. Đất bãi bồi ven sông, ven biển


1. Đất bãi bồi ven sông, ven biển bao gồm đất bãi bồi ven sông, đất cù lao trên sông, đất bãi bồi ven biển và đất cù lao trên biển.


2. Đất bãi bồi ven sông, ven biển thuộc địa phận xã, phường, thị trấn nào thì do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đó quản lý.


Đất bãi bồi ven sông, ven biển thường xuyên được bồi tụ hoặc thường bị sạt lở do Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quản lý và bảo vệ theo quy định của Chính phủ.


3. Đất bãi bồi ven sông, ven biển được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất hàng năm đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối.


Đất bãi bồi ven sông, ven biển chưa sử dụng được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân tại địa phương chưa được giao đất hoặc thiếu đất sản xuất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.


Đất bãi bồi ven sông, ven biển được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất hàng năm đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.


4. Hộ gia đình, cá nhân đã được Nhà nước giao đất bãi bồi ven sông, ven biển thì được tiếp tục sử dụng theo thời hạn giao đất còn lại.


5. Nhà nước khuyến khích tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân đầu tư đưa đất bãi bồi ven sông, ven biển vào sử dụng.



-Quyết định giao bổ sung 19,3ha đất do huyện Tiên Lãng ký ban hành ngày 9-4-1997 nhưng lại tính thời điểm giao đất từ ngày 4-10-1993 rồi UBND huyện lý giải việc tính thời hạn như vậy vì ngày 4-10-1993 đã có quyết định giao 21ha đất cho ông Vươn, nay chỉ giao bổ sung nên tính cùng một thời điểm cũng không đúng.


-Luật đất đai 1993 không cho phép tính như vậy. Nếu thời điểm năm 1997 huyện Tiên Lãng ban hành quyết định điều chỉnh diện tích giao đất thì có thể được, nhưng quyết định năm 1997 của huyện Tiên Lãng là quyết định giao đất bổ sung, do vậy thời hạn giao đất bắt buộc phải tính từ ngày ban hành quyết định 9-4-1997, thời hạn giao đất cũng phải là 20 năm, tức là đến năm 2017 mới hết hạn. Còn việc giao 21ha đất vào thời điểm năm 1993 thì được tính đến năm 2013 mới hết hạn.



Tất nhiên vì đây không phải là đất nông nghiệp 64 cho nên lập luận này của bác không còn đúng nữa, đây là cái sai thứ hai của bác.


Theo Luật Đất đai 1993 thì khu vực này thuộc nhóm đất mới bồi (Điều 50 Luật Đất đai 1993: “Việc quản lý, sử dụng đất mới bồi ven biển do Chính phủ quy định.”), đất chưa sử dụng (Điều 72 Luật Đất đai 1993). Như vậy, Luật 1987, Luật 1993 đều cho phép điều chỉnh theo các quy định riêng của Chính phủ. Đến lượt mình, tại Nghị định 64/1993 và các nghị định sửa đổi, bổ sung sau đó như Nghị định 85/1999 và Nghị định 04/2000, Chính phủ ủy quyền cho UBND cấp tỉnh. Cụ thể, khoản 3 Điều 5 Nghị định 64/1993 quy định: “3. Đối với đất trống, đồi núi trọc, đất khai hoang, lấn biển thì hạn mức của hộ, cá nhân sử dụng do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định, căn cứ vào quỹ đất của địa phương và khả năng sản xuất của họ, đảm bảo thực hiện chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng các loại đất này vào mục đích sản xuất nông nghiệp.”


Khoản 5 điều 70 Luật đất đai 2003 nói rõ “5. Hạn mức giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước thuộc nhóm đất chưa sử dụng cho hộ gia đình, cá nhân đưa vào sử dụng theo quy hoạch để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối không quá hạn mức giao đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này và không tính vào hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.


Như vậy, ông Đoàn Văn Vươn được giao 40,3 ha đất, dù không theo thời hạn chung (20 năm) là không có gì trái luật.



-Hiện nay việc giao đất theo nghị định 64 nếu tính từ thời điểm sớm nhất là từ ngày 15-10-1993 thì chưa có trường hợp nào đến hạn phải thu hồi và cũng chưa có địa phương nào xem xét xúc tiến thu hồi vì chưa có chủ trương chung là thu hồi hay giao tiếp. Với diện giao đất 20 năm đến nay Quốc hội cũng chưa quyết là hết thời hạn giao đất thì làm gì.


-Nên việc huyện Tiên Lãng lại chủ động làm trước về chủ trương là điểm sai nữa.



Lại một cái sai lầm nghiêm trọng nữa của bác Võ. Luật pháp là cái khung mà chúng ta phải theo. Mấu trốt ở chỗ chúng ta không được làm những gì luật pháp cấm, nhưng được phép làm những gì mà trong luật chưa nói tới.



-Còn nếu thu hồi để giao đất cho dự án đầu tư được phép nhưng việc thu hồi này phải căn cứ vào nghị định 84. Với quyết định thu hồi 19,3ha đất đối với ông Vươn thì mục đích thu hồi không rõ ràng. Giả sử có thu hồi giao cho dự án đầu tư thì tại thời điểm ban hành quyết định ngày 7-4-2009 phải tuân thủ theo trình tự thủ tục của nghị định 84. Tức là phải qua các bước từ chủ trương thu hồi đất, kiểm đếm tài sản, lập phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư tổng thể, ban hành quyết định thu hồi đất gửi đến từng hộ gia đình, lập phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư chi tiết và công bố công khai tại trụ sở xã để tiếp nhận đóng góp ý kiến của người dân bị thu hồi đất... Nhưng trong quyết định thu hồi đất của UBND huyện Tiên Lãng đối với diện tích 19,3ha không có nội dung nào ăn nhập với nghị định 84, và đây cũng là điểm sai.



Huyện đã thực hiện đầy đủ các bước như bác nói, chỉ có điều bác không nắm được tình hình cụ thể nên mới nói vậy.



-Một điểm sai nữa của huyện là về hạn mức giao đất. Luật quy định hạn mức được giao đối với một hộ gia đình cá nhân không được vượt quá 2ha. Vì vậy, huyện Tiên Lãng giao tới hơn 40ha thì về diện tích giao cũng sai. Trong trường hợp này nếu là cho thuê đất thì không có vấn đề gì, thậm chí cho thuê 14 năm hay ít hơn cũng được, nhưng cả hai quyết định đều ghi là giao đất mà giao đất thì bắt buộc theo hạn mức quy định và thời hạn quy định.



Xin nói lại đây không phải là đất 64, mà là đất bãi bồi do vậy kết luận này của bác Võ cũng là sai luật.



-Việc sửa chữa những cái sai của cơ quan chức năng bây giờ là muộn. Tuy nhiên, tôi nghĩ công và tội cần nên rạch ròi. Cái gì áp dụng sai thì phải sửa. Nếu theo luật thì huyện Tiên Lãng phải quyết định lại việc giao đất đối với ông Vươn kéo dài thời hạn đúng 20 năm, nhưng diện tích giao đất chỉ tối đa 2ha, còn lại là chuyển sang cho thuê.


-Vấn đề ở đây là cả UBND huyện Tiên Lãng và TP Hải Phòng đều có trách nhiệm. Trách nhiệm của huyện là làm sai, còn trách nhiệm của TP là kiểm tra thực thi pháp luật không trọn vẹn. Vấn đề là Nhà nước nói với người dân qua các quyết định hành chính thì Nhà nước phải giữ chữ tín, do vậy sai của cơ quan chức năng đến đâu thì phải sửa đến đó.



Có lẽ việc sửa chữa là quá muộn là dành cho bác Võ, vì những phát ngôn thiếu thông tin của bác đã gây ra rối loạn dư luận xã hội, làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước. Cần phải nghiêm trị.