Những năm gần đây các bệnh do virut đã trở nên rất phổ biến, ngày càng trở nên là một mối nguy hại lớn đến sức khỏe của người dân.


Bệnh do virut gây nên thường tiến triển rất nhanh, nếu không xử lý kịp thời rất có thể nguy hiểm đến tính mạng con người. Với các bệnh do vi khuẩn, từ lâu đã có nhiều loại kháng sinh được sử dụng và đã cứu sống rất nhiều người.


Nhưng các thuốc kháng sinh không tiêu diệt được virut vì cấu tạo của virut hoàn toàn khác biệt với vi khuẩn (VK). Người ta gọi virut là siêu vi khuẩn vì nó không phải là một tế bào hoàn chỉnh mà chỉ là bộ gen (hoặc DNA hoặc RNA) bao quanh là lớp vỏ protein chứa nhiều kháng nguyên, nên bắt buộc phải sống ký sinh bên trong tế bào chủ mà nó xâm nhiễm.


Thuốc KS phải dùng đủ liều lượng và đủ thời gian quy định, nếu không sẽ tạo ra những chủng VK kháng thuốc lại càng nguy hiểm hơn. Đối với virut, để tiêu diệt chúng, người ta sử dụng các thuốc kháng virut là nhóm thuốc khác, chứ không phải là thuốc KS.


Vai trò của kháng sinh với vi khuẩn


Từ penicillin, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm tòi ra vô vàn các loại kháng sinh khác nhau và đã xếp chúng thành nhiều nhóm dựa vào cấu tạo và cơ chế tác dụng đối với vi khuẩn.


Các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công về cơ chế tác dụng của thuốc kháng sinh đối với vi khuẩn và qua cơ chế này cũng thể hiện rõ thuốc kháng sinh không có tác dụng gì đối với các loại virut. Về mặt cấu tạo thì vi khuẩn là một tế bào hoàn chỉnh, có khả năng sống riêng biệt và phát triển không phụ thuộc vào tế bào túc chủ. Mỗi thành phần trong cấu trúc tế bào vi khuẩn có cấu tạo thích hợp trở thành “đích tác động” cho kháng sinh nhắm đến, gắn vào và cho tác dụng. Thí dụ như lớp vỏ bao bọc vi khuẩnlà “đích tác dụng” của kháng sinh nhóm beta-lactam (gồm các penicillin và các cephalosporin).


Dựa vào đặc tính này người ta nghiên cứu từng loại kháng sinh tác động vào một trong các thành phần của tế bào vi khuẩn làm cho vi khuẩn không phát triển và không tồn tại được (bị hủy diệt). Mỗi một nhóm kháng sinh có tác dụng khác nhau lên vi khuẩn và nhiều loại kháng sinh có tác dụng hiệp đồng. Có 4 cơ chế chính của kháng sinh tác động vào tế bào vi khuẩn, đó là ức chế cấu tạo vách của tế bào vi khuẩn, ức chế nhiệm vụ trao đổi chất của màng tế bào, ức chế sự tổng hợp protein để tạo ra các tế bào mới và ức chế sự tổng hợp acid nucleic của tế bào vi khuẩn.


Kháng sinh đối với virut thì như thế nào?


Do cấu tạo virut hoàn toàn khác biệt với tế bào vi khuẩn và nó không phải là một tế bào hoàn chỉnh bởi cấu tạo đơn giản hơn rất nhiều so với tế bào vi khuẩn chỉ là bộ gen (hoặc DNA hoặc RNA) bao quanh là lớp vỏ protein chứa nhiều kháng nguyên, vì vậy được gọi là “phi tế bào”. Do cấu tạo đặc biệt đó nên bắt buộc virut phải sống ký sinh bên trong tế bào túc chủ mà nó xâm nhiễm, bởi vì virut không có hệ thống enzym hoàn chỉnh nên không thể tự tạo ra năng lượng cho mình hoặc tự sinh sôi nảy nở được. Do đó, để tồn tại và phát triển thì virut phải xâm nhập vào trong các tế bào khác (tế bào túc chủ) và “gửi” các vật liệu di truyền của mình.


Để thay vì dùng kháng sinh không có tác dụng đối với virut, các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công một số thuốc diệt virut dựa trên cơ sở sự hiểu biết về cấu trúc và cơ chế xâm nhiễm, nhân lên trong tế bào túc chủ của virut. Tuy vậy, virut luôn thay đổi hình dạng và do đó luôn có khả năng kháng lại thuốc, đó là những điều bất lợi cho việc dùng thuốc tiêu diệt chúng.